Năm 1953 kết thúc chiến tranh Triều
Tiên, Hàn Quốc bị tàn phá, nghèo nàn và kiệt quệ. Khi đó họ bắt đầu công cuộc
kiến thiết của mình, cả thế giới chưa ai biết đến họ. Năm 1988 khi Hàn Quốc đứng
ra tổ chức Thế vận hội Seoul, cả thế giới nghiêng mình khâm phục họ như một nước
đã bước vào hàng các nước công nghiệp phát triển. Tất cả cần có 35 năm để một
quốc gia giành được một chỗ đứng trang trọng trong cộng đồng các dân tộc trên
thế giới và nhất là, có thể ngang hàng tranh biện với các nước láng giềng để bảo
vệ chủ quyền còn đang bàn cãi của mấy mỏm đá bé xíu trên biển Hoa Đông.
Vậy cái gì làm nên sức mạnh một
quốc gia?
Lòng yêu nước? Đây là điều đương
nhiên vì không có lòng yêu nước thì sẽ chẳng có gì để bàn cả. Và với người Việt
Nam thì câu chuyện lòng yêu nước lọi càng không cần phải bàn vì kết cục cuộc
chiến tranh 35 năm về trước với cường quốc số 1 thế giới đã minh chứng cho điều
đó. Nhưng để quốc gia có sức mạnh, còn cần có những thứ khác và ít nhất phải có
hai thứ: một bộ máy hành chính nhìn xa trông rộng và một hệ thống các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, làm ăn hiệu quả.
Có thể lấy công nghiệp ôtô làm ví
dụ.
Khoảng đầu những năm 90 thế kỷ
trước, công nghiệp ôtô đã được lựa chọn như một hướng ưu tiên phát triển, tạo
tiền đề cho đất nước công nghiệp hoá. Một lựa chọn nếu không phải là sáng suốt
thì củng là hợp lý vì tấm gương của Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước công nghiệp
hoá mới, cho thấy ôtô có vai trò như thế nào đối với sự phát triển nhanh chóng
vượt bậc của họ. Và những nước cạnh ta như Malaysia, Indonesia, Thái Lan cũng
đang theo đuổi điều đó càng là sự biện minh cho định hướng duy ôtô nói trên.
Nhiều cuộc hội thảo đã được tiến
hành, nhiều chiến lược ôtô, cái sau hoành tráng hơn cái trước, đã được xây dựng,
đề xuất và được chấp thuận. Để rồi nhiều nhiều ưu đãi đã dành cho các doanh
nghiệp sản xuất ôtô. Có điều, cái suy nghĩ đơn giản thấy người khác ăn khoai
mình cũng vác mai đi đào đã được trả giá bằng... giá ôtô Việt Nam đắt vào loại
nhất thế giới
Có lẽ đã có ba sự không hợp lý ở
đây. Hai thuộc về bộ máy hành chính và một thuộc về doanh nghiệp ôtô nước nhà.
Thứ nhất, bộ máy hành chính, mà đại
diện là các quan chức sở thuế, đã có một quan niệm sai lầm về ôtô, coi đó như
là thứ vật dụng xa xỉ, tiêu tốn ngoại tệ cần hạn chế. Và rồi thì, càng ăn càng
thấy ngon như một câu tục ngữ đã nói, việc thu thuế ôtô đã trở thành một mục
tiêu tự nó. Cứ xem trình bày của Bộ Tài chính trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội
là đủ rõ: sự tiêu dùng ôtô cao mang lại sự mong muốn lớn cho Bộ Tài chính vì
tăng thu được thuế. Nhất là loại thuế này dễ thu vì nó lớn, nó là cả cục và
không tránh né được, khác hẳn với vô vàn các khoản thuế khác mà Bộ đang phải
thu. Nhưng Bộ đã không nghĩ nhiều đến việc phát triển sản xuất ôtô cần thị trường
đủ lớn. Tận thu thuế đối với ôtô là việc làm tiện lợi cho các quan chức sở thuế,
nhưng việc đó đã bóp méo thị trường, cản trở nhu cầu chính đáng của nền kinh tế
là cần có nhiều động cơ hơn để tằm ra nhiều sản phẩm với giá ré hơn, cơ sở đích
thật của sức mạnh quốc gia.
Thứ hai bộ máy hành chính, mà đại
diện là các quan chức Bộ Công Thương, đã định hình chính sách bảo hộ quá mức
cho các liên doanh lắp ráp ôtô trong nước. Bảo hộ cho sản xuất trong nước là biện
pháp mà bất cứ quốc gia nào cũng làm, kể
cả nền kinh tế đứng đầu thế giới à nước Mỹ, nhưng bảo hộ mức như ở Việt Nam
chúng ta thì chỉ dẫn đễn hậu quả là tạo nên sự độc quyền không phải lối của các
doanh nghiệp lắp ráp ôtô.
Tệ hơn nữa, sự bảo hộ này đã
không mang lại lợi ích gì cho sự phát triển nền công nghiệp sản xuất ôtô của Việt
Nam, vì trên thực tế chúng ta chưa có các doanh nghiệp sản xuất ôtô hoạt động
theo cơ chế thị trường đúng nghĩa. Đã không có một hệ thống các doanh nghiệp sản
xuất trong các lĩnh vực khác nhau liên quan đến ôtô, từ động cơ cho đến các
linh kiện phụ trợ, mà chỉ có lèo tèo vài doanh nghiệp nhà nước, to cồng kềnh một
cách đáng ngạc nhiên, đi làm ôtô. Các nhà lập chính sách Bộ Công Thương, đã chọn
một việc làm dễ nhất, giống như Bộ Tài chính, là chăm bẵm một số ông lớn do
mình đẻ ra và không làm gì để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ hội thủ lợi từ
chính sách bảo hộ đó. Và họ nhầm tưởng rằng các doanh nghiệp đó sẽ đem lại sức
mạnh cho nền kinh tế chúng ta.
Do vậy, thứ ba, như là kết quả của
hai cái trên, chúng ta sẽ thấy xuất hiện câu chuyện doanh nghiệp nói chung cũng
như doanh nghiệp ôtô, doanh nghiệp cho thue xe nói riêng. Các doanh nghiệp ôtô
được ưu đãi của chúng ta thực ra chỉ là các cơ quan nhà nước đi làm ôtô theo
nhiệm vụ được nhà nước giao. Họ được ưu đãi đủ thứ từ vốn, đất đai đến nguồn
nhân lực. Cái họ thiếu là sự vận hành theo những nguyên tắc thị trường: làm ra
sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường. Sự sống sót của họ đã có nhà nước lo
nên họ không phải là các doanh nhân mà là các công chức chỉ định hoàn thành kế
hoạch được giao, năm sau cao hơn năm trước một tý, tất nhiên.
Và nghịch lý lớn nhất của phát
triển đã xuất hiện, các doanh nghiệp ôtô của chúng ta càng phát triển, thì việc
họ tiêu tốn các tiềm năng quốc gia ít ỏi càng cao, nhất là sự tiêu phí tiềm
năng chính là sức mua của toàn xã hội bị ảnh hưởng. Sự phát triển các doanh
nghiệp này, nếu quả thực là họ phát triển được, chỉ mang lại sức mạnh ảo cho quốc
gia vì đơn giản là những sản phẩm của các doanh nghiệp đó không có sức cạnh
tranh, cái quyết định thực sức mạnh quốc gia.
Một quốc gia như Hàn Quốc, dân
không đông lắm, khoảng 45 triệu người, đất không rộng lắm, khoảng 150 nghìn cây
số vuông, dựa vào đâu để có sức mạnh? Lòng yêu nước và hệ thống các doanh nghiệp
hùng mạnh. Lòng yêu nước chúng ta có, nhưng doanh nghiệp có sức cạnh tranh trên
thị trường thì không nhiều và mới chỉ đang cố gắng để hình thành cho được trong
nguyện vọng. Còn trên thực tế thì câu chuyện doanh nghiệp hoạt động theo thị
trường một cách bình đẳng với với nhau vẫn còn là cuộc vật lộn lớn. (Xin lưu ý
là cũng chỉ từ đầu năm 2010 này các doanh nghiệp tư nhân mới được quyền tiếp cận các nguồn vốn ODA của viện trợ
nước ngoài)
Năm 2010 cũng là 35 năm người Việt
Nam chúng ta bắt đầu xây dựng lại đất nước sau một cuộc chiến tranh dài. Trong
khoảng thời gian đó, đã phải mất 15 năm để thực sự giải phóng cho từng người nông
dân Việt Nam có quyền làm chủ công việc sản xụất của chính mình trên mảnh đất
được thừa nhận thuộc quyền sử dụng (chứ chưa phải sở hữu) của mình. Mười năm tiếp
theo là để ra đời luật doanh nghiệp, giải phóng cho những người làm doanh nghiệp
được quyền tổ chức những nhóm người Việt Nam làm ăn theo cung cách công nghiệp.
Mười năm tiếp theo là để luật doanh nghiệp đi vào cuộc sống và có lẽ sẽ phải mất
5 năm nữa để hết sự phân biệt giữa doanh nghiệp công và tư, để chỉ còn doanh
nghiệp Việt Nam mà thôi.
Lúc này đây có lẽ là thời điểm để
quyết định diện mạo sức mạnh quốc gia trong tương lai. Phê phán sự bất hợp lý của
chính sách công nghiệp ôtô là điều chẳng khó khăn gì đối với các trí thức bậc
trung, nhưng để đưa ra được các bước đi nhằm khai thác được tiềm năng các doanh
nghiệp nhỏ và vừa đi vào công nghiệp phụ trợ đòi hỏi phải có các trí tuệ lớn
lao, hiểu được các điều kiện nước nhà, quy luật phát triển tự nhiên và phá tan
các rào cản trong não trạng cũng như trong thực tế của nền kinh tế.
Nếu không được hoạch định lại các
bộ máy hành chính và doanh nghiệp nước nhà thì việc bước vào hàng các quốc gia
đã phát triển trong 20 năm tới là điều khó xác định. Có chỗ cho các doanh nghiệp
ôtô Việt Nam trong quá trình khó khăn và rất đáng tự hào này không? Có chỗ cho
quốc gia Việt Nam đứng ở một vị trí trang trọng trong cộng đồng các dân tộc
trên thế giới hay không? Đó có lẽ sẽ là câu chuyện rất dài của lịch sử.
Có điều, lịch sử không lắp lại. Lịch
sử không có chữ nếu
Tin được sưu tầm tại : http://chothuexethang.blogspot.com
This comment has been removed by a blog administrator.
ReplyDeleteThis comment has been removed by a blog administrator.
ReplyDelete